Có lẽ công trình có ảnh hưởng nhất cho đến nay về tầm quan trọng của phòng vệ tâm lý đối với hạnh phúc của con người là của bác sĩ tâm thần học ở Harvard, George Vaillant, người đã tiếp thu các ý tưởng của Freud, sắp xếp chúng thành các loại riêng biệt, và áp dụng chúng vào nghiên cứu dài hạn về sự thích nghi của con người với cuộc sống. Trong hệ thống của Vaillant, phòng vệ là “cơ chế cân bằng nội môi vô thức làm giảm tác động xáo trộn của căng thẳng đột ngột.”
Chúng có thể thích nghi hoặc thậm chí sáng tạo, hoặc có tính bệnh lý, và trong khi thường vô hình đối với chủ thể, thì chúng lại có vẻ kỳ quặc và đôi khi gây khó chịu đối với người quan sát.
Các cơ chế phòng vệ trong hệ thống của Vaillant rất động và được tổ chức dọc theo một contiuum từ chưa trưởng thành đến trưởng thành. Vì vậy, ví dụ, cơ chế phòng vệ non nớt của thanh thiếu niên là phóng ngoại (acting out) (ví dụ, trộm đồ trong siêu thị một cách bốc đồng) có thể dần dần tiến hóa thành phản ứng ngược (reaction formation) (trở thành một cảnh sát nghiêm khắc) và cuối cùng trở thành lòng vị tha trưởng thành (mature altruism) (trở thành giáo viên tình nguyện trong nhà tù địa phương).
Vaillant tổ chức các cơ chế phòng thủ thành một hệ thống phân cấp bốn tầng. Ở cấp độ dưới cùng là các biện pháp phòng vệ không lành mạnh, loạn tâm nhất (psychotic defenses): phóng chiếu hoang tưởng (delusional projection), phủ nhận loạn tâm (psychotic denial) và bóp méo loạn tâm (psychotic distortion). Những thứ này liên quan đến nỗ lực đối phó với thực tế bằng cách chạy trốn khỏi nó về mặt tâm lý.
Ở cấp độ thứ hai là sự phòng vệ chưa trưởng thành (immature): phóng ngoại (acting out); gây hấn thụ động (passive aggression) (chẳng hạn như tự cắt vào người); phân ly (dissociation) (phổ biến sau khi bị lạm dụng thời thơ ấu), và phóng chiếu (projection) (ý tưởng hoang tưởng).
Cấp độ thứ ba là phòng vệ nhiễu tâm (neurotic). Chức năng phòng vệ ở cấp độ này ngăn những ý nghĩ và cảm xúc có tiềm năng đe dọa, không cho chúng đi vào nhận thức. Ví dụ như chuyển dịch cảm xúc (displacement), cô lập hiệu ứng và đối lập (isolation of effect and its opposite), cảm giác không suy nghĩ (feeling without thinking), và sự kìm nén (repression). Những cơ chế phòng vệ này thường biểu hiện dưới dạng ám ảnh, cưỡng chế, rối loạn bản thể (somatization) và mất trí nhớ. Ngược lại với những phòng vệ cấp thấp hơn, những cơ chế phòng vệ này có xu hướng khiến chủ thể của chúng bị khó chịu hơn những người quan sát.
Ở cấp độ cao nhất là những cơ chế phòng vệ trưởng thành (mature), mà càng lớn tuổi người ta càng dùng nhiều. Những biện pháp phòng vệ này chủ yếu nhằm mục đích tăng cường sự hài lòng và thỏa mãn, bằng cách tăng cường sự chú ý có ý thức của chủ thể đối với cảm xúc, ý nghĩ và các hệ quả của chúng. Các cơ chế phòng vệ chính ở cấp độ này là:
- Thăng hoa (sublimation): chuyển đổi năng lượng thần kinh thành các dự án mang tính xây dựng.
- Kìm hãm (suppression): nhốt những cảm xúc tiêu cực để ngăn chúng phá hoại việc theo đuổi mục tiêu và giá trị của bạn (chờ đến hết tiệc mới bày tỏ sự tức giận với vợ / chồng).
- Biết tiên lượng (anticipation): bỏ công sức vào việc chuẩn bị và lập kế hoạch như một cách để giảm lo lắng và căng thẳng.
- Vị tha (altruism): tạo ra sự hài lòng, tương lai và ý nghĩa từ việc sử dụng các nguồn lực và tài năng của mình để giúp đỡ người khác.
- Hài hước (humor): khả năng nhìn thấy các khía cạnh buồn cười, hài hước hoặc châm biếm của một tình huống căng thẳng hoặc có khả năng gây khó chịu.
Trong 70 năm qua, công trình của Vaillant đã chỉ ra rằng, “sự trưởng thành” trong phòng vệ là một khía cạnh đặc biệt của khả năng phục hồi tinh thần (mental resilience), và có tính dự đoán về sức khỏe và kết cục hạnh phúc của người trưởng thành.
Nói cách khác, những người sử dụng các cơ chế phòng vệ trưởng thành như hài hước, tiên lượng và vị tha nhiều khả năng sẽ có cuộc sống tốt đẹp hơn những người dựa vào các cơ chế phòng vệ chưa trưởng thành như phủ nhận, phóng chiếu và phân ly.